Nói "90% người Việt Nam ăn gạo bẩn" là vô căn cứ

Trao đổi với NNVN về phát biểu của lãnh đạo một doanh nghiệp trên một tờ báo vừa qua cho rằng "90% người Việt Nam ăn gạo bẩn", ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục BVTV (Bộ NN-PTNT) bức xúc cho biết: Trong quản lí về an toàn thực phẩm hiện nay, không có khái niệm thế nào gọi là bẩn hay sạch, mà chỉ có khái niệm an toàn hoặc không an toàn. Trong sản xuất nông nghiệp an toàn, có mức độ cao hơn, đó là sản xuất hữu cơ.

Ông Nguyễn Qúy Dương, Phó Cục trưởng Cục BVTV. Ảnh: Đoàn Bắc.

Vì vậy, việc gọi "gạo bẩn" hay "gạo sạch" về mặt khái niệm đã là không chính xác. Bên cạnh đó, việc khẳng định 90% người Việt Nam ăn gạo bẩn là điều võ đoán, quy chụp và hoàn toàn thiếu căn cứ. Có thông tin, cơ sở, căn cứ chính thống nào để khẳng định rằng hơn 90% người Việt Nam là ăn gạo bẩn, và thế nào là bẩn, thế nào là sạch?

Kể cả đối với gạo xuất khẩu cũng như tiêu dùng trong nước, chúng ta cũng chỉ có khái niệm gạo đó đạt các yêu cầu về an toàn thực phẩm, hay không đạt yêu cầu về an toàn thực phẩm của các nước nhập khẩu mà thôi, chứ không ai dùng từ gạo bẩn hay là gạo sạch.

Trong Luật An toàn thực phẩm của nước ta, cũng chỉ có khái niệm nông sản, thực phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm. Các mặt hàng nông sản sản xuất ra, ngoài các yêu cầu về mặt chất lượng, còn có các yêu cầu nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm, phục vụ cho tiêu dùng nội địa cũng như xuất khẩu.

Hiện nay, các mặt hàng thực phẩm nói chung (trong đó có mặt hàng gạo), đều đã được Bộ Y tế, Bộ NN-PTNT ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn về chất lượng, cũng như các yêu cầu đảm bảo an toàn thực phẩm, trong đó quan trọng có quy định về mức tồn dư tối đa cho phép (MRL) đối với các hóa chất, thuốc BVTV tồn dư, và định kỳ hoặc đột xuất, đều có các cơ quan chức năng kiểm tra, lấy mẫu giám sát. Tất cả các mặt hàng nông sản, thực phẩm lưu thông trên thị trường, đều phải tuân thủ các quy định này.

Đối với các quốc gia trên thế giới, việc áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn về an toàn thực phẩm còn thường được áp dụng theo các quy định của CODEX. Kể từ khi Việt Nam tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), gạo Việt Nam xuất khẩu đi các nước trên thế giới (ngoại trừ các quốc gia có quy định riêng bổ sung như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản…), thì đều phải tuân thủ các quy định chung của CODEX quy định về MRL nhằm đảm bảo các yêu cầu chung về dư lượng hóa chất, thuốc BVTV đối với mặt hàng gạo.

Nguy cơ vượt tồn dư thuốc BVTV trên gạo là vô cùng thấp

Ông Nguyễn Quý Dương khẳng định, gạo là mặt hàng có nguy cơ rủi ro rất thấp về mất an toàn thực phẩm.

Gạo sản xuất tại nước ta là mặt hàng có nguy cơ vô cùng thấp về mất an toàn thực phẩm. Ảnh: Lê Hoàng Vũ

Đối với việc sử dụng thuốc BVTV hiện nay, các tỉnh phía Nam thông thường giai đoạn cuối cùng cần phải phun thuốc BVTV trên lúa, đó là phun trừ bệnh đạo ôn cổ bông và bệnh lem lép hạt. Đây là các đối tượng sâu bệnh phổ biến tại các tỉnh ĐBSCL, loạt phun cuối cùng thường được tiến hành phun kép. Tuy nhiên, lần phun cuối cùng muộn nhất, cũng chỉ được tiến hành ở giai đoạn lúa thu hoạch từ 20 đến 25 ngày.

Trong khi đó, các loại thuốc phòng trừ các bệnh như đạo ôn cổ bông, lem lép hạt hiện nay có thời gian cách li dài nhất cũng thường chỉ 7 ngày. Vì vậy, kể cả trong trường hợp nông dân phải phun thuốc BVTV muộn đi chăng nữa, thì nguy cơ rủi ro có tồn dư thuốc BVTV trên gạo vượt mức dư lượng tối đa cho phép là vô cùng thấp.

Đối với các tỉnh phía Bắc và Trung Bộ, các đợt phải phun thuốc BVTV muộn rất ít xảy ra, thường phun muộn nhất là đối với rầy lứa 6, lứa 7, lúc lúa mới chỉ chắc xanh đến đỏ đuôi. Vì vậy từ lúc phun tới lúc lúa gặt, thời gian cũng còn khoảng 15-20 ngày nữa, trong khi thời gian cách ly của thuốc BVTV cũng chỉ khoảng 7 ngày, nên nguy cơ tồn dư thuốc BVTV đáng kể trên gạo cũng là vô cùng thấp.

Sản xuất lúa gạo ngày càng cải thiện về an toàn thực phẩm

Theo ông Nguyễn Quý Dương, về khâu tổ chức sản xuất, 5 năm qua, nước ta đã có đề án về IPM (quản lí dịch hại tổng hợp) về sản xuất nói chung, trong đó đặc biệt quan tâm giành cho cây lúa tại 63 tỉnh thành, bởi đây là cây trồng trọng điểm quốc gia về đảm bảo an ninh lương thực cũng như cho mục tiêu xuất khẩu.

Sản xuất lúa gạo của nước ta ngày càng cải thiện về chất lượng, năng suất, đặc biệt là đảm bảo an toàn thực phẩm. Ảnh: TL.

Đặc biệt tại các tỉnh sản xuất lúa trọng điểm vùng ĐBSCL, những năm qua, ngành nông nghiệp cũng như các địa phương, nông dân, HTX phối hợp với các doanh nghiệp đã rất tích cực triển khai các chương trình sản xuất bền vững, an toàn, hiệu quả, tiết kiệm, sử dụng khoa học và hạn chế tối đa việc lạm dụng sử dụng phân bón, thuốc BVTV trên cây lúa như chương trình "3 giảm, 3 tăng", "1 phải, 5 giảm", sản xuất theo SRI (hệ thống canh tác lúa cải tiến)…

Đây cũng là nội dung chính mà Dự án VnSat, một dự án rất lớn do Bộ NN-PTNT triển khai dành cho sản xuất lúa đã được triển khai có hiệu quả rất tốt tại 21 tỉnh thành ĐBSCL và các tỉnh phía Nam trong các năm gần đây nhằm cải thiện chất lượng sản xuất gạo, an toàn và bền vững.

Cùng với việc đẩy mạnh các chương trình này, những năm gần đây, ý thức, trình độ sản xuất của nông dân đã được nâng lên rõ rệt, giúp tình hình sâu bệnh trên cả nước đã giảm rất mạnh, không có các dịch bệnh nghiêm trọng trên lúa. Vì vậy việc sử dụng thuốc BVTV trên lúa rất hạn chế, giúp nguy cơ có dư lượng thuốc BVTV trên lúa gạo gần như không có. Có những vùng cả 10 năm qua đã không cần phải dùng tới thuốc BVTV và thuốc trừ cỏ trên lúa...

Đây là những nền tảng hết sức quan trọng để sản xuất lúa của Việt Nam hiện nay hoàn toàn tự tin đảm bảo được các yêu cầu về chất lượng, đảm bảo các điều kiện theo quy định về an toàn thực phẩm.


Theo Nông Nghiệp Việt Nam